Daisetz Teitaro Suzuki (1870-1966) được biết đến nhiều nhất qua loạt sách về Phật giáo Thiền viết bằng Anh ngữ xuất bản trong các các thập niên 1920-1930. Ông được xem là một trong những người đầu tiên mang Thiền đến cho thế giới Tây phương. Kiến thức và phương pháp tiếp cận Thiền đã có rất nhiều thay đổi kể từ 50 năm nay. Do đó, tuy rằng vai trò của Suzuki trong việc khiến Thiền được đón nhận rộng rãi trong thế giới Tây phương, cách giải thích Thiền của ông không thoát khỏi bị phê bình. Ngay từ các năm 1950, Hồ Thích, trong các nghiên cứu về lịch sử Thiền tông Sơ kỳ đã phê bình cách giải thích Thiền của Suzuki là phi sử tính và có tính cách thần bí. Tuy nhiên, chúng ta không nên hiểu lầm rằng Hồ Thích tập trung vào việc phê bình Suzuki trong các nghiên cứu của ông về lịch sử Thiền tông Sơ kỳ. Ông chỉ trích ra một vài đoạn trong các sách của Suzuki để nêu ra lý do ông không thể đồng ý được với Suzuki rằng Thiền hoàn toàn siêu việt lịch sử và văn hóa. Hồ Thích chuyên chú hơn vào việc phân tích, đối chiếu, hiệu đính và ấn hành các tư liệu Đôn Hoàng về lịch sử Sơ kỳ Thiền tông. Với tư cách của người nghiên cứu Sử, ông không thoải mái lắm với những gì mà ông nhận thấy là mâu thuẫn, bất nhất và thậm chí là ngụy tạo trong các “sử liệu” của Thiền tông Sơ kỳ[1]. Tôi nghĩ thái độ này cũng không có gì là quá đáng. Các học giả hàng đầu về lịch sử Thiền của Nhật Bản, chẳng hạn như Yanagida Seizan và Iriya Yoshitaka, chính họ cũng là những Phật tử tu tập Thiền nghiêm túc, đều công nhận và kính trọng vị trí của Hồ Thích như là người mở đường cho nhãn quan lịch sử này. Cần lưu ý thêm rằng Hồ Thích không phải chỉ chúi mũi dùi vào Thiền tông Sơ kỳ, ông áp dụng cả thái độ đó trong các nghiên cứu văn hóa sử Trung Quốc. Ông đã từng nói rằng “chúng ta không cần phải trở thành trò cười của người xưa.”
Suzuki viết các sách về Thiền với tư cách là một người tu tập Thiền thành khẩn và sâu đậm, ông tập trung vào việc truyền đạt kinh nghiệm tâm linh của Thiền cho người Tây phương. Tuy nhiên, cũng rất là sai lầm nếu nghĩ rằng Suzuki hoàn toàn không lưu ý đến lịch sử. Ngoài các trước tác về Thiền bằng Anh ngữ, Suzuki cũng tận tụy nghiên cứu, hiệu đính và ấn hành các tư liệu lịch sử Thiền tông Sơ kỳ tìm thấy ở Đôn Hoàng. Theo nhận xét của tôi, không một người trí thức đứng đắn nào kỵ đạn lịch sử. Dĩ nhiên không thiết thực rằng ai cũng phải trở thành sử gia, nhưng mà thiếu hiểu biết về bối cảnh lịch sử cũng rất khó cho chúng ta lãnh hội được một truyền thống triết học hay văn học nào đó một cách nghiêm túc. Không những không phi lịch sử, Suzuki cũng không hề có thái độ phản trí thức trong các trước tác cũng như trong đời sống. Suzuki là người rất khoa bảng, ông tốt nghiệp Đại học Tokyo, có khả năng đọc các ngôn ngữ kinh điển của Phật giáo như Pali, Phạn, Tạng và Hán văn. Ông là giáo sư của Đại học Ōtani (大谷 Đại Cốc) và từng diễn giảng ở rất nhiều đại học bên Tây phương. Như đã đề cập, cách tiếp cận Thiền của Suzuki bị một số học giả phê bình là thần bí, lãng mạn, siêu việt, vân vân. Những phê bình này không hẳn hoàn toàn không chính xác. Tuy nhiên, tôi nghĩ Suzuki cũng không tuyệt đối vô lý khi ông công nhận giá trị tâm linh của Thiền. Dĩ nhiên, bất cứ một hệ thống triết học nào cũng xuất phát trong một khung cảnh văn hóa và lịch sử đặc thù nào đó (ngay cả khoa học cũng không là ngoại lệ). Nhưng nếu chúng ta chỉ tập trung vào việc phân tích bối cảnh lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ và xem đó là đã trọn vẹn công việc, chúng ta có thể bỏ lỡ cái giá trị hiện sinh mà truyền thống đó muốn truyền đạt. Các tư tưởng gia, triết gia, nghệ thuật gia, tuy rằng, không ít thì nhiểu, đều là sản phẩm của một nền văn hóa hay bối cảnh lịch sử đặc thù nào đó. Nhưng mà một điều không thể chối bỏ được là họ có một thông điệp nào đó muốn truyền đạt. Thiền cũng thế. Như đã đề cập, Suzuki không phải là hoàn toàn không lưu tâm đến các dữ kiện ngoại tại, nhưng mà chủ ý của ông trong các trước tác bằng Anh ngữ về Thiền, như đã đề cập, là để truyền đạt kinh nghiệm tâm linh của Thiền. Điều này đối với ông quan trọng hơn và thiết yếu để truyền đạt đến các độc giả Tây phương hơn là giải thích lịch sử.
Ngoài các trước tác bằng Anh ngữ về Thiền, hiệu đính và ấn hành một số cảo bản Đôn Hoàng về Thiền tông Sơ kỳ, Suzuki còn nghiên cứu và dịch sách Đại Thừa Khởi Tín Luận (大乘起信論), một tài liệu rất quan trọng của Phật giáo Đại Thừa. Đặc biệt nhất là, Suzuki cũng là người đóng góp nhiều hơn bất cứ ai cho việc nghiên cứu Kinh Lăng-già (Laṅkāvatāra-sūtra), một trong các kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa. Ông xuất bản cuốn Studies in the Lankavatara Sutra năm 1930; bản dịch Anh văn trọn vẹn Kinh Lăng-già từ nguyên tác Phạn văn, The Lankavatara Sutra. Translated for the first time from the original Sanskrit, năm 1932; và một Sách dẫn (Index) hết sức công phu đối chiếu cặn kẽ các thuật ngữ của Kinh Lăng-già dựa theo bản Phạn văn, Tạng văn và các bản Trung văn. Kể từ khi Suzuki xuất bản bản dịch Anh văn (1932) cho đến nay đã gần một thế kỷ. Bản dịch của ông do đó, không khỏi có phần già nua, phần vì Anh ngữ Phật giáo thuở đó vẫn còn ở trong thời kỳ dọ dẫm. Tuy nhiên, cho đến hiện thời vẫn chưa có một bản dịch nào hoàn chỉnh hơn thay thế bản dịch của ông. Hiện nay ở Hoa Kỳ chỉ có hai bản dịch Anh ngữ của Kinh Lăng-già - cả hai bản đều dịch từ các bản Trung văn. Vì các dịch giả là người Mỹ, cho nên Anh ngữ của họ đọc lưu loát. Tuy nhiên, tôi không nghĩ rằng hai bản dịch này có ích dụng gì cho những người học tư tưởng Phật giáo Đại Thừa. Đây không phải là chỗ để đi sâu vào chi tiết. Chỉ nêu ra một điểm là cả hai dịch giả đều không có kiến thức về ngôn ngữ, lịch sử và triết học Ấn Độ, thuộc về cả Phật giáo lẫn Ấn giáo.
Lý do chính mà Suzuki quan tâm đến và tận tụy nghiên cứu Kinh Lăng-già nhiều như thế bởi vì ông là một Thiền giả. Mà theo truyền thống Thiền thì Bồ-đề-đạt-ma, sáng Tổ của Thiền, truyền lại kinh này cho đệ tử của ông là Huệ Khả, sau này trở thành Tổ thứ hai của Thiền tông. Dựa theo truyền thống này thì Kinh Lăng-già là nền tảng giáo lý chính yếu của Thiền. Tuy nhiên, đọc Nghiên cứu này dù cung cách Thiền giả của Suzuki vẫn hiển lộ, chúng ta không khỏi nhận thấy một phương diện khác của thái độ trí thức của ông. Thay vì đóng vai trò truyền đạt kinh nghiệm tâm linh Phật giáo, ông khiêm cung chia sẻ sự tìm hiểu nghiêm túc về kinh với người đọc. Tôi không cần đi sâu vào chi tiết. Độc giả tự quan sát trong những trang sách dưới đây. Tóm lại, Suzuki cung hiến cho những người có đủ kiên nhẫn và tận tụy với Phật giáo một tập tư liệu quí báu về một trong các kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa.
Sau hết, tôi xin trình bày cách dịch sách này với độc giả. Simon Leys (Pierre Ryckmans), Hán học gia người Bỉ (Belgium), đưa ra phát biểu sau đây trong lời tựa bản dịch Luận ngữ sang Anh văn của ông: Dịch giả khéo là một người vô hình. Hiển nhiên ý ông muốn nói: dịch giả khéo là người diễn dịch trung thực càng nhiều càng tốt ý tưởng của tác giả hơn là áp đặt ý kiến cũng như bút pháp và phong cách của mình lên tác giả. Tuy rằng hoàn toàn đồng ý với Simon Leys, nhưng trong khi dịch thiên khảo cứu này, tôi hầu như phản ngược lại nguyên tắc đó. Lý do là nếu tôi chỉ trung thực dịch những gì Suzuki viết, không những đã không giúp ích gì cho người đọc, ngược lại chỉ làm người đọc rối trí thêm. Lý do là phần lớn trong thiên khảo cứu này, Suzuki trích dịch từ Kinh Lăng-già (và một số Kinh hay Luận khác). Và theo như ông nói, ông thường xen lẫn giải thích của mình vào kinh văn. Theo nhận xét của tôi, làm như thế không những không sáng tỏ ý nghĩa của kinh văn mà chỉ gây rắc rối một cách vô ích. Lại nữa, phỏng đoán từ Anh văn vốn được dịch từ Phạn văn sang trở lại Việt văn là một con đường vòng vo khó khăn. Đây cũng tựa như phải dịch tiểu thuyết vũ hiệp của Kim Dung thay vì từ nguyên tác Trung văn, mà lại từ bản dịch Anh văn sang trở lại Việt văn. Hơn nữa, như đã nhận định ở trên, nghiên cứu này của Suzuki được viết cách đây gần một thế kỷ, Anh ngữ Phật giáo thuở đó còn thuộc vào giai đoạn sơ khai. Đôi khi cách lựa chọn từ Anh văn của ông cũng hơi lạ, chẳng hạn như Suzuki dịch Sangha (Tăng-già) sang Anh văn là “Brotherhood” và vāsanā (tập khí) là “memory”.
Do đó, ngoại trừ những nhận xét và phê bình của Suzuki, tất cả các trích dịch của ông từ các kinh văn, tôi đều dịch thẳng từ nguyên tác chứ hoàn toàn không dựa theo bản dịch Anh văn của ông. Về Kinh-Lăng-già, Suzuki dựa vào bản Phạn văn ấn hành bởi Nanjō Bunyū (南條文雄 Nam Điều Văn Hùng) năm 1923. Tôi không có bản này trong tay. May mắn thay trong tủ sách của tôi vẫn còn bản Phạn văn ấn hành bởi P. L. Vaidya: Saddharmalaṅkāvatārasūtram: The Mithila Institute of Post-Graduate Studies and Research in Sanskrit Learning. Darbhanga, 1963. Không có bản này, không cách chi tôi có thể hoàn thành bản dịch này. Theo nhận định của tôi, ấn bản Vaidya cũng không dị biệt gì lắm với ấn bản Nanjō. Như đã đề cập, những trích dịch từ Kinh Lăng-già, tôi không dựa theo bản Anh văn của Suzuki mà dựa theo bản Phạn văn. Tôi cố gắng dịch sát nghĩa để giữ được khí vị của kinh văn. Dĩ nhiên, thế giới tư tưởng và triết học của Kinh Lăng-già không phải là dễ hiểu. Suzuki cũng nhấn mạnh nhiều lần trong Nghiên cứu. Không ai có thể đột nhiên “đơn đao trực nhập” thế giới triết học Đại Thừa được cả. Tìm hiểu triết học Phật giáo đòi hỏi nhiều kiên nhẫn, thành thực, nghiêm túc và tận tụy. Tôi đạt được rất nhiều hứng thú đọc và dịch Nghiên cứu của Suzuki. Hi vọng người đọc cũng có được kinh nghiệm tương tự.
Như Hạnh
Virginia, USA, tháng 1, 2019
[1] Xem thêm Hồ Thích Thiền học Án - Quyển 1 của Hồ Thích được dịch bởi Như Hạnh, Khai Tâm ấn hành năm 2018. BTV