Có người nói: “
Những tác phẩm lớn, lớn dần theo nhịp thời gian.” Đó là trường hợp của khúc trường ca CHỨNG ĐẠO của nhà thơ áo nâu Vĩnh Gia Huyền Giác (665-713). Khúc ca ra đời cách đây trên 12 thế kỷ mà tưởng như mới hôm nào, chữ chưa ráo mực. Quyền lực của thơ là vậy, từ trong thời gian bước qua ngưỡng cửa âm thanh mà đi vào vĩnh cửu....
Ngay lúc đầu, Chứng Đạo Ca đã vang lừng trong thiên hạ. Từ huyện Vĩnh Gia là quê hương của Thiền sư, khúc ca chắp cánh bay rợp trời như bướm khắp thiền viện, tòng lâm, rồi khắp Trung Hoa, rồi ra hải ngoại. Một pháp sư Ấn Độ phát nguyện dịch ra chữ Phạn gởi về hành hương ở nước Phật. Mấy trăm năm sau, dưới ngọn bút hào hoa của thi hào Tô Đông Pha, đời nhà Tống, toàn thể khúc ca được khắc ở hai mặt một tấm bia dựng tại chùa Tịnh Huệ, tỉnh Quảng Châu. Nay tác phẩm đã được dịch ra nhiều thứ tiếng Tây phương len lỏi vào nếp sống cơ giới Âu Mỹ gọi là “tiếp ánh sáng, nối mùi hương, làm sáng rỡ Tổ đăng, huy hoàng Phật nhập.”
Chứng Đạo Ca là một khối pha lê đúc kết lại tinh hoa của Phật giáo mà cốt tủy là Thiền tông. Thiền không nhằm tạo ra một mẫu người để khuôn tín đồ vào đó - dầu mẫu người ấy là La Hán hay Bồ Tát. Bằng diệu tu diệu chứng, Thiền thúc giục mỗi người tự tri tự ngộ. Tri những gì hư dối, chẳng thực là mình, những sở tạo của khối óc: tư tưởng, định kiến, triết học v.v… Ngộ con người thực của chính mình: bổn lai diện mục. Bằng tri và ngộ, Thiền thành tựu con người toàn diện – con người của nguyên lý đại đồng, của thể tánh bình đẳng, mà Huyền Giác gọi là “thiên chân Phật”.
“Bổn nguyên tự tánh thiên chân Phật.”
Tự tánh là Phật. Đó là trái tim của khối pha lê.